ĐỜI HUYỀN BÍ CỦA BÀ BLAVATSKY

Đời Huyền Bí của HPB(tt)

The Esoteric World of Madame Blavatsky– Daniel Caldwell

 

 Xem Mục ĐỜI HUYỀN BÍ CỦA BÀ BLAVATSKY

Bà Blavatsky là một người đàn bà vĩ đại. Bà có thân hình to lớn … nhưng nếu bà có vẻ sần sùi của thân cây sồi thì không phải là không có sức mạnh của nó …
Về việc bà làm phép lạ thì tôi không biết gì hết. Tôi không đi tới gặp bà để được thấy hiện tượng, và chắc chắn là bà không làm cho tôi hiện tượng nào. Bà không hóa một tách trà thành hai tách trước mặt tôi, cũng như là không tạo ra tiếng gõ quen thuộc nào cho tôi nghe. Tất cả những biểu lộ này có vẻ như chỉ là chuyện nhỏ nhặt không đáng, như dăm bào văng ra khi bào cây gỗ làm cột cho Đền Minh Triết. Tôi không nhớ mình có hề nhắc đến chúng trong khi trò chuyện, và tôi có chút không hiểu là ai lại có thể nghiêm chỉnh cho chúng là lý do để tôn kính bà.
Điểu mà bà Blavatsky làm thì lớn hơn không thể tưởng so với việc hóa ra thêm tách trà. Bà làm cho một số đàn ông và đàn bà trí thức nhất và hoài nghi nhất của thế hệ này tin - tin mạnh mẽ tới nỗi làm họ thành chứng cớ chống lại sự cười chê và khinh thị - rằng chẳng những thế giới vô hình bao quanh chúng ta có nhiều Đấng cao tột hơn con người về hiểu biết về Chân Lý, mà con người còn có thể tiếp xúc với những Vị ẩn mặt và lặng lẽ ấy, và được các ngài chỉ dạy về nhiều điều bí ẩn thiêng liêng về Thời gian và Vĩnh Cửu. Bà Blavatsky, một người Nga, bị nghi ngờ là gián điệp, biến nhiều người Anh gốc Ấn thành tin tưởng vào sứ mạng trình bầy Theosophy của bà.
Bà Blavatsky dạy không những là các Mahatma có thật, mà các ngài còn có thể và sẵn lòng tiếp xúc trực tiếp với con người. Bà tuyên bố mình là sứ giả trực tiếp được chọn của Thiên Đoàn, được các ngài giao phó việc tỏ lộ đường Đạo mà ai xứng đáng và mong muốn, có thể có hòa hợp trực tiếp với các Đấng tối cao này. Tôi chỉ là người ngoài, một người quan sát hiếu kỳ mà không hề là đệ tử. Tôi không thể nói gì về những bí ẩn nội môn này chỉ dành cho các bậc đạo đồ được nhận vào.
Nhưng tôi nói với sự hiểu biết của riêng mình, là chắc chắn bà là phụ nữ rất có tài năng và độc đáo cho ta trò chuyện, là nhân vật nhiệt thành, bốc đồng, hăng hái, có đầy thiếu sót, và về hình dáng riêng thì không đẹp. Bà là vậy, là nhân vật tuyệt vời và mạnh mẽ, mà tôi chưa thấy ai như vậy ở Nga hay Anh. Bà độc đáo mà cũng hết sức là con người.

21 B Annie Besant
Xuân1889, London

Từ năm 1886 một niềm tin chậm chạp lớn dần nói rằng triết lý của tôi thì chưa đủ, rằng cuộc đời và cái trí thì khác hơn và nhiều hơn là tôi mơ tưởng. Tâm lý học đang có những bước tiến mau lẹ, thí nghiệm về thôi miên làm phơi bầy ra những phức tạp trong tâm thức con người. Tôi tìm hiểu về những mặt ít biết hơn như tâm thức, giấc mơ, hoang tưởng. Người ta thấy hiện tượng thông nhãn, thông nhĩ, đọc tư tưởng là có thực. Cuối cùng tôi tự nhủ là có gì đó ẩn dấu, có quyền năng chi đó, và nhất quyết đi tìm cho tới khi kiếm ra được nó, và tới đầu mùa xuân 1889 tôi thấy tuyệt vọng, quyết tâm đi tìm trong mọi chuyện câu đáp cho thắc mắc về cuộc đời và cái trí.
Tới cuối, khi ngồi một mình suy gẫm như quen làm vậy khi mặt trời đã lặn, tôi thấy lòng ước ao mạnh mẽ mà gần như tuyệt vọng, muốn có giải đáp cho câu hỏi về cuộc đời và cái trí, tôi nghe một Giọng Nói mà về sau đối với tôi là âm thanh thánh thiện nhất trên trần, kêu tôi hãy có can đảm vì ánh sáng đã gần kề. Hai tuần trôi qua, và rồi ông Stead đưa vào tay tôi hai quyển sách dầy.
– Bà có thể điểm sách hai quyển này không? Các nhân viên trẻ của tôi đều né, không dám sờ đến nó, nhưng bà thích các đề tài này lắm nên chắc có thể hiểu được sách.
Tôi đón lấy bộ sách, ấy là hai quyển của bộ The Secret Doctrine do H.P. Blavatsky viết.
Tôi mang chúng về nhà và ngồi xuống đọc. Khi lật hết trang này rồi trang kia, càng lúc tôi càng thích thú, mà sao chúng có vẻ quen thuộc; sao như trí tôi nhẩy đi trước tới kết luận, sao nó thấy tự nhiên quá, liền lạc quá, và dễ hiểu biết bao. Tôi bị choáng mắt không thấy được, vì ánh sáng của những sự kiện rời rạc nay thấy như là các phần của một khối toàn vẹn vĩ đại, và tất cả những thắc mắc, lạ lùng, vấn đề, dường như biến mất.
Tôi viết bài điểm sách, và xin ông Stead cho lời giới thiệu đến tác giả, và rồi gửi một thư ngắn xin phép được gặp mặt. Tôi nhận được một thư hồi đáp vô cùng nhã nhặn, mời tôi đến, và một chiều êm mùa xuân, Herbert Brown và tôi - vì ông cũng có ước vọng về đề tài này như tôi -, đi bộ từ trạm Notting Hill tự hỏi chúng tôi sẽ gặp gì, tới cửa nhà số 17 Lansdowne Road. Ngưng một lát, đi mau lẹ ngang qua hảnh lang và phòng ngoài, qua cửa xếp mở rộng, thấy một hình dạng trong ghế rộng trước cái bàn, có tiếng nói, vang dội, thúc đẩy.
– Bà Besant thân mến, tôi đã mong gặp bà từ bấy lâu nay.
Và tôi đứng đó với bàn tay nằm trong nắm tay chặt của bà, và nhìn lần đầu tiên trong đời này thẳng vào đôi mắt của HPB. Tôi cảm thấy tim nhẩy vọt - đây có phải là việc nhận ra nhau trở lại ? - và rồi, tôi xấu hổ mà nói rằng mình cảm thấy một sự chống đối mãnh liệt, một sự rút lui mạnh mẽ, như con thú hoang khi cảm thấy bàn tay làm chủ nó.
Tôi ngồi xuống sau vài lời giới thiệu không cho tôi ý nghĩ nào, và lắng nghe. Bà nói về những lần du lịch, về nhiều nước khác nhau, cuộc nói chuyện tuyệt vời dễ dàng, mắt bà khép hờ, những ngón tay thuôn như đúc vấn thuốc lá không ngưng. Không có gì đặc biệt để ghi lại, không có lời nào về huyền bí học, không có gì bí ẩn, như một phụ nữ ngoài đời trò chuyện với hai người khách đến chơi buổi chiều. Chúng tôi đứng dậy ra về, và trong một lúc bức màn vén lên và cặp mắt sáng ngời, xuyên thấu gặp mắt tôi, với giọng nói đầy cảm tình tha thiết:
– Ô, bà Besant thân mến, ước sao bà đến với chúng tôi !
Tôi cảm thấy một ao ước thật khó chế ngự, muốn cúi xuống hôn bà, do thúc đẩy của giọng nói tha thiết ấy, đôi mắt thúc đẩy ấy, nhưng với lòng kiêu hãnh cũ không nhượng bộ lóe lên, và ý tự cười chê sự điên rồ của mình trong lòng, tôi nói câu từ biệt lịch sự thông thường, và quay đi với lời tránh né nhã nhặn ngu ngốc. Lâu sau đó, bà bảo tôi.
– Này bà, lòng kiêu hãnh của bà tệ quá, bà kiêu ngạo như Lucifer vậy.
Tôi tìm hiểu về hội Theosophy, muốn gia nhập mà chống đối việc ấy. Vì tôi thấy rõ ràng và hiển hiện - quả thật là với sự hiển hiện đau lòng -việc gia nhập có nghĩa là chi. Tôi đã thắng được phần lớn thiên kiến của công chúng chống lại tôi, về việc làm của tôi cho London School Board. Liệu tôi sẽ đâm đầu vào một xoáy xáo trộn mới chăng - và chiến đâu lần nữa cuộc chiến mệt mỏi cho một chân lý không được lòng mọi người ? Tôi phải chống lại thuyết duy vật, và đối đầu với sự xấu hổ phải thú nhận trước công chúng là tôi đã lầm, bị trí thông minh gây lầm lẫn khi làm ngơ Linh hồn ư ? Ánh mắt của Charles Bradlaugh sẽ ra sao khi nói cho ông hay là tôi thành hội viên hội Theosophy ?
Sự tranh đấu thật dữ dội và sâu sắc. Và chuyện xẩy ra là tôi trở lại Lansdowne Road hỏi về hội Theosophy. H.P. Blavatsky nhìn tôi một lát với đôi mắt soi thấu.
– Bà có đọc bài tường trình của hội Nghiên Cứu Tâm Linh (Society for Psychic Research SPR) về tôi chưa ?
– Chưa, theo tôi nhớ thì tôi chưa hề nghe gì về nó.
– Đọc đi, và nếu sau khi đọc xong mà bà trở lại - thì để coi.
Bà không nói gì thêm về đề tài này, mà chuyển sang kinh nghiệm của bà ở nhiều vùng đất.
Tôi mượn một bản sao của bài tường trình, đọc rồi đọc trở lại. Tôi mau lẹ thấy nền tảng mà lời biện luận dựa trên đó thật mỏng manh ra sao, tính chất khó tin của những lời cáo buộc, và - tệ hơn hết thẩy - cái nguồn dơ bẩn từ đó cho ra chứng cớ. Mọi việc chỉ về sự đáng tin hay không của ông bà Coulomb, và họ tự nhận mình là đồng bạn trongviệc cho là dối gạt. Tôi có thể tin vào đó chống lại nhân vật chân thành, không sợ hãi mà tôi thoáng thấy chăng, chống lại sự chân thật mạnh mẽ hãnh diện từ đôi mắt xanh trong sáng, ngay thẳng không sợ hãi, như mắt của một trẻ thơ cao quý ?
Tác giả bộ The Secret Doctrine có phải là kẻ mạo danh đáng ghét, kẻ lừa gạt tòng phạm, kẻ gian dối xấu xa, đáng ghét, kẻ đánh tráo với cửa sập và vách ngăn che dấu ? Tôi cười to với sự kỳ quặc và vứt bài tường trình sang bên với sự chê bai chính đáng, biết rằng mình đúng khi gặp người cùng tâm tánh như mình, và tránh biệt sự xấu xa và thấp hèn của lời dối trá. Ngày hôm sau tôi đến văn phòng Theosophical Publishing Company, số 7 Duke Street, Adelphi, nơi nữ bá tước Wachtmeister - một trong những bạn thân nhất của HPB - làm việc, và tôi ký đơn xin gia nhập làm hội viên hội Theosophy.
Khi nhận chứng chỉ hội viên, tôi đi đến Lansdowne Road, thấy HPB chỉ có một mình. Tôi đi lại bà, cúi xuống và hôn bà, nhưng không nói lời nào.
– Bà đã gia nhập Hội ?
– Vâng.
– Bà đã xem bài tường trình ?
– Vâng.
– Sao ?
Tôi quì xuống trước mặt bà và nắm chặt tay bà trong tay tôi.
– Câu trả lời của tôi là, bà có bằng lòng nhận tôi làm học trò, và cho tôi vinh dự là được tuyên bố cho cả thế giới hay rằng bà là thầy của tôi ?
Gương mặt nghiêm nghị, không đổi của bà dịu lại, mắt long lanh ướt vì lệ; rồi với phẩm cách oai nghi, bà đặt tay lên đầu tôi.
– Bà là một phụ nữ cao quí. Xin Chân Sư ban phước cho bà.

1889, London21C Herbert Burrows
Xuân

Bị bủa vây bởi nhiều vấn đề của cuộc sống và tâm trí, mà thuyết duy vật của chúng ta không giải quyết được, đào sâu bằng trí tuệ thuyết vô thông (agnosticism) mà nay không còn dễ chịu với chúng tôi, Annie Besant và tôi càng mong muốn có ánh sáng hơn. Chúng tôi đã đọc quyển The Occult World và nhiều năm trước có nghe - mà ai lại không nghe chứ ? - về một phụ nữ kỳ lạ với cuộc đời xem như là đối nghịch lại những lý thuyết ta quí nhất; nhưng triết lý của sách đối với chúng tôi là như lời khẳng định cuộc đời của bà, là sự nghiệp mà chúng tôi không có cách nào chứng thực.
Hoài nghi, chỉ trích, được luyện bởi nhiều năm tranh cãi trước công chúng để đòi hỏi có bằng cớ khoa học vững chắc nhất, về những điều nằm ngoài kinh nghiệm của chúng tôi, Theosophy đối với chúng tôi là việc chưa biết, và khi ấy nó dường như là vùng bất khả. Nhưng nó lôi cuốn vì nó hứa hẹn nhiều và với việc trò chuyện, với đọc sách, sự lôi cuốn lớn mạnh dần. Với sự lôi cuốn hóa mạnh mẽ là ước muốn được biết, thế nên vào một buổi chiều tôi nhớ mãi, với thư giới thiệu của ông William T. Stead, khi ấy là chủ bút tờ Pall Mall Gazette như là sổ thông hành cho chúng tôi, chúng tôi gặp mặt bà trong phòng khách ở số 17 Lansdowne Road, với người phụ nữ mà về sau chúng tôi biết thêm và yêu quí, như là phụ nữ tuyệt vời nhất trong thời đại của bà.
Tôi không ngu ngốc tới độ muốn thấy phép lạ. Tôi không mong thấy bà Blavatsky trôi lơ lửng, hay thèm muốn được xem việc tạo tách trà, nhưng tôi muốn nghe về Theosophy, và tôi chưa được nghe mấy. Bà, người mà chúng tôi tới đó để gặp là phụ nữ to lớn, dềnh dàng, chơi bài Nga, và trò chuyện một dọc về gần như mọi đề tài trừ chuyện mà trí chúng tôi háo hức muốn biết. Không hề có nỗ lực khuyến dụ chúng tôi vào hội, không tìm cách ‘ảnh hưởng’ chúng tôi (chúng tôi không bị thôi miên !) mà lúc nào đôi mắt tuyệt vời cũng ngời sáng, và dù thân thể đau yếu, khi ấy đã thấy rõ thật đau lòng, có một kho năng lực dự trữ cho cảm tưởng là chúng tôi thấy, không phải phụ nữ thật, mà chỉ là tính chất bề ngoài của một ai đã chịu đựng nhiều và biết nhiều.
Tôi cố gắng giữ tâm trí cởi mở, không thiên vị và tin là mình đã thành công. Tôi thật tâm nóng lòng muốn được học hỏi, nhưng tôi phán đoán và chăm chú xem có hành vi dù nhỏ nhặt tới đâu muốn lừa gạt. Về sau khi tôi khám phá đôi điều về nhận thức khác thường của HPB, tôi không ngạc nhiên khi thấy bà lượng định chính xác và không nhầm lẫn thái độ của tôi trong lần viếng thăm đầu tiên này của tôi, và ấy là thái độ mà bà không hề thực sự ngăn cản. Nếu ai nói một cách khờ dại về việc bà thôi miên người ta, biết là bà liên tục nhấn mạnh với chúng tôi về bổn phận tuyệt đối là chứng tỏ mọi việc, và chỉ bám chặt vào điều gì tỏ ra là đúng !
Tới đó một lần là tới lần nữa, và do vậy sau vài lần đến chơi tôi bắt đầu thấy sự sáng. Tôi vài lần thoáng thấy một đạo đức cao cả, nhiệt tâm tự hy sinh, một triết lý liền lạc về sự sống, một khoa học xác định và rõ ràng về con người cùng mối liên hệ của họ với vũ trụ tinh thần. Đây là những việc thu hút tôi mà không phải hiện tượng, vì tôi không thấy hiện tượng nào.
Lần đầu tiên trong đời tôi tìm thấy một vị thầy có thể gom những tư tưởng rời rạc của tôi, và kết chúng lại với nhau làm thỏa mãn, và kỹ năng không sai chạy, tầm hiểu biết lớn lao, lòng kiên nhẫn đầy yêu thương của vị thầy làm tôi đáp ứng giờ này sang giờ kia. Tôi mau lẹ học được rằng người bị gọi là gian dối và lường gạt là một linh hồn cao cả, mỗi ngày được dành cho việc làm không ích kỷ, người mà trọn cuộc đời thì thanh khiết và giản dị như đời của trẻ thơ, người không màng sự đau khổ hay cực nhọc, nếu những điều này có thể đẩy mạnh công cuộc vĩ đại mà bà hiến dâng hết trọn năng lực của mình.
Cởi mở tới một mức nào đó, bà là hiện thân của lòng tốt - lặng lẽ như tờ khi cần, mà khi có dấu hiệu nhỏ nhất về sự không tin tưởng vào công việc của đời mình, bà lại là hiện thân của sự nghiêm khắc. Biết ơn, rất biết ơn cho mỗi sự chú ý thân ái; mà vô tâm, rất vô tâm với tất cả những gì liên can đến chính mình, bà ràng buộc chúng tôi vào bà, không phải chỉ như là vị thầy khôn ngoan, và còn như là người bạn yêu mến. Có lần tôi quị vì căng thẳng thể chất và tâm trí, và đời tôi gần như ngưng lại. Trong suốt lúc này bà tỏ ra ân cần không mệt mỏi, và bà cho một chứng cớ đặc biệt, hết sức riêng tư nên không được nêu ra đây, mà chắc chỉ có một trong triệu người mới nghĩ ra mà thôi.
Toàn hảo - không; có lỗi - có; điều mà bà ghét hơn hết thẩy là lời khen đủ thứ về cá tánh của bà. Nhưng khi tôi nói là bà có lúc dữ dội như cơn bão, chính là cơn giông khi bà nổi giận, là tôi đã nói gần hết. Và tôi thường nghĩ nó rất có thể là một vài trận thịnh nộ ấy có là cho một chủ ý đặc biệt. Sau này chúng gần như biến mất. Kẻ thù của bà đôi khi nói bà nặng tay và thô lỗ. Chúng tôi những ai hiểu bà biết rằng không có phụ nữ nào khác với lề thói xã hội hơn bà, theo đúng nghĩa của chữ. Tính dửng dưng tuyệt đối với mọi hình thức bên ngoài là sự dửng dưng thực sự, dựa trên hiểu biết tinh thần bên trong của bà về chân lý trong vũ trụ.
Ngồi cạnh bà khi có người lạ vào, như họ đến từ khắp nơi trên thế giới, tôi hay nhìn ngắm với sự vui thích mạnh nhất, nỗi ngạc nhiên của họ khi gặp một phụ nữ luôn luôn nói điều mà bà nghĩ. Nếu đó là một hoàng thân thì có lẽ bà làm ông kinh ngạc; nếu đó là một người nghèo thì họ sẽ được đồng bạc chót bà còn và những lời tốt lành nhất của bà.

21D Annie Besant
Tháng Bẩy, 1889. Fontainebleau, Pháp.

Tôi phải đi Paris để dự hội nghị lớn về Lao Động tại Paris với Herbert Burrows, được tổ chức ở đó từ 15 đến 20 tháng Bẩy, và dành một hai ngày với H.P. Blavatsky, bà ra ngoại quốc vài tuần để nghỉ ngơi. Ở đó tôi gặp bà dịch những phần tuyệt diệu trong cuốn ‘The Book of the Golden Precepts’ nay được biết rộng rãi dưới tên The Voice of the Silence.
Bà viết nó mau lẹ, không có tài liệu nào trước mặt mình.Tôi ngồi trong phòng lúc bà viết. Tôi biết bà không viết nó dựa vào cuốn sách nào, mà liên tục ghi xuống, giờ này rồi giờ kia, y như thể bà viết hoặc từ trí nhớ hay do đọc ở chỗ không có cuốn sách nào, và đến tối, kêu tôi đọc to xem ‘tiếng Anh có được’. Có ông Herbert Burrows ở đó, và bà Candler, một hội viên người Mỹ trung kiên, và chúng tôi ngồi quanh HPB trong khi tôi đọc. Bản dịch Anh văn toàn thiện và lời văn đẹp đẽ, trôi chẩy, êm ái, chúng tôi chỉ thấy có một hay hai chữ là cần thay đổi, và bà nhìn chúng tôi như một em nhỏ kinh ngạc, nghi ngại với những lời khen của chúng tôi - những lời khen mà ai biết văn chương sẽ chấp thuận nếu họ đọc bài viết tuyệt vời như thơ ấy.
Trước đó trong ngày tôi có hỏi bà về những tác nhân tạo ra tiếng gõ, luôn được nghe trong những buổi cầu hồn của Thông linh học.
– Bà không cần vong linh để sinh ra tiếng gõ, bà nói, xem đây.
Bà đặt tay lên đầu tôi mà không đụng nó, và tôi nghe cùng cảm thấy những tiếng gõ nhẹ lên xương sọ, mỗi cái sinh ra một làn điện nhẹ dọc theo xương sống. Rồi bà cẩn thận giải thích cách tiếng gõ được sinh ra ở bất cứ chỗ nào mà người điều khiển muốn, và cách tương tác của những dòng điện mà chúng có thể sinh ra do ý chí của con người hữu thức.
Theo cách ấy bà mô tả lời giảng dạy của mình, chứng minh bằng thí nghiệm những lời đưa ra về sự hiện hữu của những lực tinh tế mà một cái trí được tập luyện có thể làm chủ. Tất cả những hiện tượng đều thuộc về mặt khoa học của chỉ dạy của bà, và bà không hề phạm sự rồ dại là mình có thẩm quyền về triết lý đưa ra vì làm được hiện tượng.  Và bà luôn luôn nhắc nhở chúng tôi rằng không có gì gọi là ‘phép lạ’, rằng mọi hiện tượng bà tạo ra chỉ là do có hiểu biết về thiên nhiên sâu xa hơn người trung bình, và do lực của một cái trí được tập luyện kỹ, và ý chí; vài hiện tượng là điều bà mô tả là ‘trò tâm lý’, việc tạo hình ành do trí tưởng tượng, và việc dùng chúng gây ấn tượng lên người khác là ‘hoang tưởng tập thể’; những chuyện khác như dời chỗ vật cứng chắc là dùng bàn tay bằng chất thanh vươn ra kéo chúng lại phía bà, hay dùng một tinh linh; chuyện khác là bằng cách đọc ở cõi thanh v.v.

21E G.R.S. Mead
Tháng Tám 1889 - 1891, London

Mãi tới đầu tháng Tám 1889 tôi mới đến làm việc luôn với HPB. Bà rời London ra đảo Jersey ở bở phía nam của Anh. Một điện tín thúc giục của bà đến và tôi khởi hành ra đảo. Sự chào đón nồng hậu biết bao ở hàng hiên căn nhà có dây leo hoa thơm phủ, sự chăm sóc tận tình biết mấy để cho người mới tới có đủ mọi tiện nghi !
Tôi thường ngac nhiên thấy rằng lời cáo buộc và vu khống chính về HPB là lường gạt và che dấu. Theo kinh nghiệm của tôi, bà luôn tin tưởng người khác và thành thật quá độ. Thí dụ khi tôi mới đến làm việc, bà cho phép tôi xem hết mọi giấy tờ của bà, và kêu tôi thanh toán chồng thư từ mà bằng không sẽ nằm ụ đó cho tới ngày tận thế; vì nếu bà ghét điều gì thì ấy là trả lời thư tín. Khi ấy tôi được chỉ dẫn về cách làm việc cho tạp chí Lucifer và chẳng bao lâu tay tôi đầy việc như chuyển đi chỉ dẫn, thay đổi và đảo lại chỉ dẫn cho Bertram Keigthley, lúc ấy là phó chủ bút, vì trong những ngày ấy HPB sẽ không để cho một chữ vào tờ Lucifer trừ phi bà đã thấy và thấy lại nó, và bà thêm vào rồi cắt xén bản in thử cho tới phút cuối.
Một hôm, chỉ mới sau khi tôi bắt đầu làm việc với bà, HPB bất ngờ vào phòng tôi với một tập bản thảo và đưa nó cho tôi, bảo:
– Đọc nó đi, ông già, và cho tôi hay anh nghĩ gì về nó.
(còn tiếp)